Đường dây nóng: 0866.59.4498 - Thứ ba 14/05/2024 05:06
Hiện các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Hà Nội đã và đang nỗ lực trong công tác áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng chuỗi sản xuất toàn cầu.
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), đến nay, cả nước có khoảng hơn 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia sản xuất cung cấp linh kiện phụ tùng cho nhóm ngành hàng ô tô, điện tử, cơ khí, dệt may, da giày. Tuy nhiên, mới có khoảng 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu.
Ông Phạm Minh Thắng, Giám đốc Công ty P&Q Solutions cho rằng, các doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn nhiều vấn đề cần giải quyết để gia nhập chuỗi sản xuất toàn cầu.
Theo ông Thắng, thị trường các sản phẩm công nghiệp ngày càng “phẳng” về công nghệ và nguồn cung nên “báo giá cao” và “hệ thống chất lượng kém tin cậy” là hai nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, nhất là các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa không tham gia được vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Mặt khác, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với nhiều thách thức khi chu trình vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại; chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng nhưng số lượng mỗi loại lại ít đi; nhu cầu thị trường cũng nhanh chóng thay đổi… điều này dẫn đến chi phí vốn của các doanh nghiệp cao trong khi áp lực sinh lời lớn hơn.
Trong bối cảnh sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thiếu các đòn bẩy, ông Phạm Minh Thắng cho rằng, để cạnh tranh mạnh mẽ và phát triển bền vững, doanh nghiệp cần phải giải quyết vấn đề hiệu quả trong sản xuất và tránh lãng phí. Cùng với đó, các doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng, giao hàng kịp thời, linh hoạt thích ứng và thỏa mãn toàn diện yêu cầu của khách hàng.
Ngoài ra, với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ hiện nay, ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ TP Hà Nội - HANSIBA cho rằng, Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đều đã ban hành nhiều hướng dẫn nhằm hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Hà Nội: Áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng chuỗi sản xuất toàn cầu |
Trong đó, đáng chú ý, Bộ Công Thương đã ban hành quy định về trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển. Nhưng theo ông Nguyễn Vân, sau hơn 6 năm chính sách được ban hành, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết đến và chưa tiếp cận được cơ chế chính sách.
Ông Nguyễn Vân cho biết thêm: việc áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là nội dung quan trọng mà hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tại Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung còn đang lúng túng để đáp ứng chuỗi sản xuất toàn cầu cũng như tiếp cận những gói ưu đãi. Do đó việc trang bị kiến thức, kinh nghiệm cho lãnh đạo và cán bộ quản lý các doanh nghiệp là rất cần thiết.
Liên quan đến việc áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu chuỗi sản xuất toàn cầu, ông Phạm Minh Thắng - Giám đốc P&Q Solutions chỉ ra bối cảnh của chuỗi cung ứng và xu hướng toàn cầu liên quan đến chuỗi cung ứng sản phẩm, những khó khăn, thách thức mà doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải.
Ông Thắng đưa đưa ra một số tiêu chuẩn phổ biến cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ như ISO 9001; ISO 14001; ISO 45001; IATF 16949 để áp dụng cho các doanh nghiệp với những mục đích khác nhau.
Ngoài ra, vị chuyên gia này cũng chỉ ra những vấn đề thường gặp trong triển khai các hệ thống quản lý chất lượng ISO, trong đó có việc không thích hợp với tổ chức, thiếu sự tham gia đầy đủ của toàn tổ chức, thiếu khả năng duy trì và cải tiến sau chứng nhận, thiếu sự tích hợp với các lĩnh vực khác và không giúp cải tiến hoạt động.
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng này, tuy nhiên, nổi bật nhất trong đó có thể kể đến là do những chính sách ưu đãi, chương trình hỗ trợ dành cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ mới được triển khai trong vài năm trở lại đây; Các hoạt động tuyên truyền về chính sách, chương trình vẫn còn nhiều yếu kém dẫn đến các doanh nghiệp vẫn chưa nắm được thông tin hoặc chưa biết đến những chương trình, chính sách này.
Ông Trương Thanh Hoài, Cục trưởng Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương khi nói về vấn đề này đã đưa ra 3 đề xuất để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ nhất, thay vì cách tiếp cận theo chuỗi cung ứng như hiện nay dẫn đến các chương trình ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước không đến được với các hoạt động mang lại giá trị gia tăng cao cho doanh nghiệp thì cần có cách tiếp cận công nghiệp hỗ trợ theo chuỗi giá trị, mở rộng phạm vi của công nghiệp hỗ trợ bao gồm các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu,.
Thứ hai, để các doanh nghiệp có thông tin và tiếp cận dễ dàng hơn với các chương trình ưu đãi, hỗ trợ của Chính phủ, cần đẩy mạnh công tác truyền thông, từ đó, dần dần thay đổi nhận thức và đồng hành cùng các mục tiêu chung của đất nước. Bên cạnh đó, một trong những giải pháp cần thiết đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đó là phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nhằm nâng cao hiệu quả các dịch vụ công.
Thứ ba, cần hoàn thiện hệ thống pháp lý và thể chế hóa các biện pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp công nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ để có thể nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ hướng tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững. Song song với các hoạt động đó, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các giải pháp mang tính cốt lõi về hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý, kết nối kinh doanh, thông tin thị trường, phát triển thị trường, phát triển nguồn nhân lực...
Nhằm hướng đến các mục tiêu phát triển dài hạn và bền vững, tất cả những giải pháp trên cần được triển khai đồng bộ với công tác truyền thông, thay đổi và nâng cao nhận thức của các bên liên quan và cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Thông qua đó, giúp doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thực sự chuyển mình, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể phát triển, vươn ra thế giới.
Hiện Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn từ xu hướng chuyển dịch sản xuất để tham gia sâu vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trên toàn cầu. Để nắm bắt cơ hội này, không những cần đến sự định hướng, hỗ trợ từ Chính phủ mà bản thân các doanh nghiệp cần chủ động, nỗ lực, sáng tạo trong hoạt động sản xuất và tăng cường mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài.
Bộ Công Thương cho biết, ngành công nghiệp hỗ trợ được Chính phủ xác định là ngành công nghiệp quan trọng trong nền kinh tế. Do đó, những cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam liên tục được xây dựng, ban hành và điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Theo Nghị quyết số 115/NQ-CP, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2025, doanh nghiệp Việt Nam có khả năng sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 11% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Cả nước sẽ có khoảng 1.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam trong đó, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 30%.
Đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ đáp ứng 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp; có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.
Tại Dự thảo sửa đổi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công Thương đề xuất hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ưu tiên trong vòng 10 năm, với khoản cấp bù chênh lệch lãi suất 3%/năm cho đối tượng thuộc diện ưu đãi đầu tư. Chính sách này áp dụng với các khoản vay ký thỏa thuận vay vốn, giải ngân thực hiện đến hết năm 2030.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Bộ Công Thương cũng nhận định quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ trong giai đoạn tới còn gặp nhiều thách thức. Trong đó, đại dịch Covid-19 và các cuộc chiến tranh thương mại, xung đột vũ trang trong thời gian vừa qua đã tạo ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất trên toàn cầu; đặc biệt là nguy cơ đứt gãy chuỗi giá trị, gián đoạn nguồn cung.
Trong các ngày từ 15-17/11/2023 đã diễn ra Triển lãm Quốc tế lần thứ 4 về Công nghiệp hỗ trợ và Chế biến chế tạo Việt Nam (VIMEXPO 2023) do Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Công nghiệp - Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) chủ trì, phối hợp với Công ty Quảng cáo và Hội chợ Triển lãm C.I.S Vietnam tổ chức. Sự kiện có quy mô 7.000 m2 với gần 300 gian hàng và sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong đó, ngành công nghiệp ô tô có các đại diện lớn tham gia triển lãm như Tập đoàn THACO, Toyota Việt Nam, Công ty CP Nhựa Hà Nội, Công ty CP Đầu tư Thương mại Công nghiệp Hà Nội... cùng các công ty đến từ hơn 10 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Tại triển lãm này, ông Phạm Anh Tuấn, Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM) cho biết, Triển lãm sẽ giúp VEAM cũng như các doanh nghiệp đạt được những hiệu quả và mục tiêu tích cực trong lĩnh vực xúc tiến thương mại và phát triển thị trường; từ đó tạo ra cơ hội hợp tác, mở rộng mối quan hệ và tiếp cận với những tiến bộ công nghệ hàng đầu trên thế giới, tăng cường vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu.
Ông Watanabe Shige, Phó Đại sứ, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam nhận định, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, cùng các chính sách hỗ trợ tích cực của Chính phủ. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đã có mối quan hệ hợp tác mật thiết với doanh nghiệp Việt Nam để cùng phát triển. Trong đó, Toyota là một trong những doanh nghiệp đầu tiên đặt chân đến Việt Nam và đã có nhiều hoạt động kết nối, hỗ trợ và hợp tác với doanh nghiệp Việt trong gần 30 năm qua.
Hồi đầu tháng 11/2023, Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đã đến thăm Việt Nam và có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên. Những nội dung trong công bố giữa Liên bộ cho thấy, cả hai quốc gia sẽ tiếp tục nỗ lực đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Ví dụ JETSO đầu tư hỗ trợ các cơ sở sản xuất, chế biến, chế tạo. Tổ chức JICA Nhật Bản đang tiến hành các hợp tác kỹ thuật trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp lớn của Nhật Bản đã và đang tích cực hỗ trợ doanh nghiệp Việt nâng cao công nghệ sản xuất, hệ thống quản lý chất lượng. Trong năm 2023, Công ty Toyota Việt Nam đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác với Bộ Công Thương, để hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam trong ngành ô tô, xe máy.“Việt Nam đang có nhiều cơ hội trước làn sóng chuyển dịch sản xuất từ những quốc gia lớn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng thực hiện chuyển đổi số, thúc đẩy sản xuất các sản phẩm có giá trị, hàm lượng công nghệ cao để có thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Watanabe Shige chia sẻ.
Báo cáo của Tổng Cục Thống kê cho thấy, hiện nay, trên 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của cả nước vẫn đang sử dụng thiết bị điều khiển thủ công, trên 50% doanh nghiệp sử dụng thiết bị bán tự động, còn lại 10% doanh nghiệp sử dụng thiết bị tự động hoá và chưa đến 10% doanh nghiệp có sử dụng robot trong dây chuyền sản xuất. Điều này cho thấy, nếu để doanh nghiệp Việt tự lực, tự cường sẽ rất khó để theo kịp các quốc gia phát triển.
Trong khi đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang có xu hướng dịch chuyển nhà máy ra khỏi Trung Quốc, tìm đến các thị trường nhỏ hơn tại Châu Á để giảm thiểu rủi ro. Chính phủ Nhật Bản đã chi 2,2 tỷ USD hỗ trợ doanh nghiệp nước này rời Trung Quốc. Chính phủ Mỹ cũng yêu cầu các công ty sớm rời nhà máy tại Trung Quốc về Mỹ hoặc chuyển sang nước thứ ba. Nhiều quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) cũng đang có những động thái tương tự.
Trong làn sóng dịch chuyển này, Việt Nam trở thành một trong những “bến đỗ” mới đầy tiềm năng tại khu vực Đông Nam Á. Những doanh nghiệp tiên phong, dám “dấn thân” sẽ có cơ hội lớn chiếm lĩnh thị phần, trở thành nhà cung cấp mới cho thị trường thế giới. Nhưng để tận dụng được thời cơ này, doanh nghiệp Việt phải đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn của các bạn hàng nước ngoài, đặc biệt là các tiêu chuẩn xanh và bền vững.
Ông Nguyễn Hữu Phong, Giám đốc Sản xuất Công ty CP Nhựa Hà Nội, cho biết hiện tại trong lĩnh vực ô tô, xe máy, Công ty đã có các bạn hàng trong và ngoài nước như Toyota, Honda, Piaggio. Trong đó, Toyota là một trong những bạn hàng quan trọng, đã có nhiều hỗ trợ về quản trị, sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực. Do đặc thù hoạt động trong ngành nhựa nên Công ty đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường.
“Các sản phẩm đều được sản xuất theo công nghệ và quy trình khép kín, giảm phát thải. Các phụ phẩm, phế phẩm độc hại sản sinh trong quá trình sản xuất được Công ty xử lý thu gom, vận chuyển cho một đối tác chuyên xử lý để đảm bảo an toàn với môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm trong lĩnh vực ô tô đạt khoảng 40%, xe máy đạt gần 90%”, ông Phong nói.
Cùng quan điểm, bà Tô Thị Hồng Lĩnh, phụ trách kinh doanh Công ty CP Đầu tư Thương mại Công nghiệp Hà Nội (OSAKA SEIMITSU) cho biết, hiện tại quy trình sản xuất của Công ty đã đạt tiêu chuẩn ISO 14009:2020 về quản lý chất lượng môi trường. “Các nguyên liệu được nhà máy sử dụng đều thân thiện với môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn RoSH, REACH của châu Âu. Công ty cũng đang đàm phán với một số đối tác để triển khai lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái từ cuối năm 2024”, bà Lĩnh chia sẻ.
Cũng theo đại diện nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, thời gian qua đã có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài tìm đến Việt Nam bằng nhiều kênh khác nhau. Rõ ràng, việc mở rộng quan hệ hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong nước. Đây là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi, khi mà các doanh nghiệp Việt cần vốn, công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất; còn doanh nghiệp nước ngoài lại cần nhà cung cấp và thị trường tiêu thụ.
Ông Darryl James Dong, đại diện Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC tại Việt Nam cho rằng, thương mại vốn là ngành có nhiều thách thức; thương mại toàn cầu thậm chí còn nhiều thách thức, khó khăn hơn nữa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể nâng cao vị thế của mình nhằm cạnh tranh tốt hơn và thậm chí vượt qua các đối thủ, đó chính là việc áp dụng triết lý kinh doanh bền vững. Trong “cuộc chiến không khoan nhượng” này, điều các doanh nghiệp cần làm là hợp tác với nhau để cùng phát triển.