Đổi mới cách tiếp cận thị trường để gia tăng xuất khẩu, khai thác tối đa lợi thế từ CPTPP
Sau hơn 5 năm có hiệu lực, Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã giúp kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước khu vực châu Á thuộc CPTPP tăng đáng kể.
Theo Bộ Công Thương, 9 tháng năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu khẩu sang các thị trường châu Á thuộc khối CPTPP hầu hết đều ghi nhận tốc độ gia tăng. Đơn cử, xuất khẩu hàng hoá sang Brunei đã tăng 402,3%; Australia tăng 28,4%; Nhật Bản tăng 4,7%; New Zealand tăng 3,1%...
CPTPP cũng là đòn bẩy đẩy hàng hoá Việt Nam ra các thị trường, trong đó một số thị trường khó tính như: Nhật Bản, Australia, New Zealand... Kể từ khi CPTPP có hiệu lực, một số nước đã ngay lập tức cắt giảm thuế quan nhập khẩu với nhiều mặt hàng quan trọng như đồ gỗ, nông thuỷ sản. Điều này làm tăng quy mô thương mại giữa Việt Nam và các nước CPTPP cũng như góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Thêm nữa, nhờ CPTPP, Việt Nam có cơ hội tận dụng nguồn đầu vào với giá cạnh tranh để từ đó gia tăng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang các nước thành viên khác mà ta chưa có FTA như: Canada, Mexico, Peru cũng như các nước đang có ý định trở thành thành thành viên của CPTPP như Trung Quốc...
Hiệu quả cuối cùng là CPTPP tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và động lực tăng hàm lượng công nghệ của hàng Việt Nam, góp phần xuất khẩu hàng hoá sang các thị trường khó tính.
![]() |
Nhờ CPTPP, Việt Nam có cơ hội tận dụng nguồn đầu vào với giá cạnh tranh để từ đó gia tăng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang các nước thành viên khác mà ta chưa có FTA. Ảnh: Minh Trang |
Bên cạnh thuận lợi, giống như nhiều khu vực thị trường khác, Hiệp định CPTPP cũng có những quy định, tiêu chuẩn về phát triển bền vững song song với lộ trình cắt giảm thuế quan. Trong số các nước thành viên CPTPP thì tất cả các nước đều chung xu thế là hướng đến tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và hình thành những “luật chơi” mới về thương mại.
Đơn cử như tại châu Á, Nhật Bản, Australia, New Zealand là những thị trường đang đặt ra tiêu chuẩn mới và đều là nước đi đầu về bảo vệ môi trường. Ví dụ như Nhật Bản gần đây đã ban hành luật thúc đẩy mua sắm xanh, ưu tiên chính sách mua sắm công cho các mặt hàng bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên trên thực tế, mức độ tận dụng các FTA và tỷ trọng hàng hóa Việt Nam tại thị trường CPTPP còn tương đối hạn chế. Dư địa và cơ hội để doanh nghiệp tận dụng tại các thị trường FTA này còn rất lớn, nhất là những thị trường chưa có FTA trước đó. Thực tế, doanh nghiệp đã phần nào đã tận dụng được các FTA; trong đó, có CPTPP nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc tận dụng đó còn tương đối hạn chế. Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam đến thời điểm hiện nay thường xuất thô, rất ít chế biến sâu. Ngoài ra, doanh nghiệp chưa chú trọng vào những vấn đề xây dựng thương hiệu hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các thị trường nước ngoài.
Do đó, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác xuất khẩu hàng hóa, thì để tiếp cận và khai thác tối đa dư địa từ thị trường các nước CPTPP cũng như tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan từ thị trường các nước nhập khẩu, các chuyên gia, hiệp hội ngành hàng khuyến cáo, để gia tăng sự hiện diện và giá trị xuất khẩu tại thị trường CPTPP, doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận mới theo hướng xây dựng và định vị thương hiệu riêng. Các doanh nghiệp cần tạo sự khác biệt và xây dựng giá trị bền vững cho thương hiệu, qua đó nâng cao giá trị hàng hóa Việt Nam cũng như tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA thế hệ mới.
Lãnh đạo Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ nhấn mạnh, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu và tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại để tận dụng được uy tín của thương hiệu quốc gia, thương hiệu ngành hàng, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể của Việt Nam khi thâm nhập các thị trường mới.
Ngoài việc đầu tư về chiến lược thương hiệu bài bản, các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến kế hoạch truyền thông định kỳ; đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm, thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài.
Không những vậy, để xây dựng chiến lược tiếp cận thị trường cũng như xây dựng thương hiệu riêng tiến tới xuất khẩu bền vững, trước tiên doanh nghiệp cần vượt lên tâm lý “an phận” làm gia công thuần túy chuyển sang tư duy dám làm, dám chấp nhận những rủi ro và có chiến lược tiếp cận thị trường để sản xuất sản phẩm phù hợp.
Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ các hiệp hội xây dựng chiến lược cạnh tranh của thương hiệu ngành, xây dựng và quảng bá những chỉ dẫn địa lý; khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đã có sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia, doanh nghiệp có tiềm lực, tiềm năng xây dựng thương hiệu, từ đó góp phần định vị thương hiệu sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.